Trong cuốn sách này, Freud chứng minh rằng nếu như chúng ta đẩy đến cùng cái logic, nguyên tắc đầu tiên này dẫn chúng ta đến một cái “Sâu xa hơn” không thể bác bỏ: “xung năng chết”. Cái chết dường như không chỉ là kì hạn không thể khác của mọi sự sống, mà phiền toái hơn, còn là cái đích cuối cùng của sự sống. Đây chính là kết luận mà ông đạt tới ở những trang cuối trong chứng minh của mình: “Niềm tin mà chúng tôi đã có được, niềm tin rằng đời sống tâm trí, thậm chí có thể là đời sống thần kinh nói chung, bị thống trị bởi xu hướng hạ thấp, duy trì sự bất biến và gạt bỏ căng thẳng bên trong do các kích thích gây ra (bằng nguyên tắc Nirvana, nếu chúng ta sử dụng cách diễn tả của Barbara Low), niềm tin ấy theo chúng tôi là một trong những lí do mạnh mẽ nhất làm cho chúng tôi tin vào sự tồn tại của xung năng chết”.
Chính sự thật này là điều mà Freud mời chúng ta khám phá từng bước trong suốt phần lớn nội dung tiểu luận. Nhưng sự thật này lại che giấu/che phủ một sự thật khác, cũng quan trọng như vậy, và sự thật ấy sẽ là nội dung của phần cuối cuốn sách: nếu như sự sống vẫn tiếp nối, bất chấp xung năng chết, là bởi vì có những sức mạnh khác kháng cự xung năng này, đó là “xung năng sống” hay “xung năng sinh tồn”.
Chúng ta cần chú ý để không hiểu cụm từ “xung năng chết” là một sức mạnh dẫn con người đến việc giết người. Ngay cả khi, sau này, Freud đưa vào đây (đưa vào khái niệm xung năng chết) xung năng phá hủy và xung năng gây hấn thì xung năng chết, trong bài viết này, trước hết là một xung năng nói đến sự hoạt động bên trong của mỗi chúng ta (Laplanche đề cập “xung năng đi đến cái chết hoặc xung năng làm cho mình chết”). Sự hoạt động bên trong này làm cho chúng ta hướng đến cái chết nhưng không biết đến điều đó bởi vì chúng ta cảm thấy là mình đang hướng đến sự sống. Nhưng, và đây là điều Freud sẽ chứng minh trong bài viết này, đằng sau trải nghiệm này, cái vẻ bề ngoài này – cũng là thực tiễn này bởi vì những sức mạnh của sự sống đối lập với xung năng chết và buộc nó phải lùi kì hạn lại – còn có một thực tiễn khác, một xu hướng bị lờ đi bởi vì “quá trình sống của cá thể, vì những lí do bên trong, hướng đến sự bằng lặng của các căng thẳng hóa học tức là cái chết”, quá trình đặt cái chết như là mục đích cuối cùng của mỗi cuộc đời.
“Năm 1915, Freud đã viết trong cuốn “Xung năng và số phận của chúng” (Les pulsions et leur destin): “hệ thần kinh là một bộ máy có chức năng đẩy xa các kích thích mỗi khi chúng xuất hiện, hạ thấp chúng càng thấp càng tốt mỗi khi có thể, duy trì bản thân ở trạng thái không kích thích”. Chức năng này của hệ thần kinh được ông gọi tên là nguyên tắc không đổi hay nguyên tắc khoái cảm (sau một thời gian được gọi tên là nguyên tắc-khó chịu).
Đối với Freu, đây là nguyên tắc cốt lõi của phân tâm học. Đó cũng chính là điều ông đã nhắc đi nhắc lại ngay từ những câu đầu tiên của tiểu luận này: “Thuyết phân tâm học chấp nhận một cách không ngần ngại rằng sự vận động của quá trình tâm trí bị chi phối bởi nguyên tắc khoái cảm”.
Trong toàn bộ phần đầu của cuốn sách, ông sẽ chứng minh cho chúng ta thấy nguyên tắc này có hiệu lực biết nhường nào ngay cả khi sự khó chịu nhận được bởi một số hành vi (trò chơi for-da của em bé, sự lặp đi lặp lại trong các chứng nhiễu tâm) dường như bác bỏ tính hiệu lực ấy: nguyên tắc khoái cảm luôn luôn ẩn dấu đằng sau và luôn giữ một vai trò nổi trội trong đời sống tâm trí.
Tuy nhiên hai sự việc/điều (giấc mơ của những nạn nhân của sự nhiễu tâm sang chấn và sự lăp lại, trong khuân khổ của chuyển di, các sự kiện trong thời kì ấu thơ, những sự kiện đối kháng với nguyên tắc khoái cảm) buộc ông phải thừa nhận rằng thực tiễn lâm sàng hé lộ một cái “sâu xa hơn” nguyên tắc này. Thêm nữa, sự lặp đi lặp lại đưa ông đến việc nghĩ rằng ẩn đằng sau nguyên tắc khoái cảm này là một xu hướng chung của mọi sinh vật, đó là xu hướng quay trở lại trạng thái trước đó, trạng thái trước sự sống.
Từ đó, cái “sâu xa hơn nguyên tắc khoái cảm” này, nguyên tắc chỉ có mục đích duy nhất là làm giảm mọi căng thẳng, “hạ chúng đến mức thấp nhất”, chỉ có thể là xu hướng quay trở lại trạng thái không-sống, tức là cái chết, hoàn hoàn không có căng thẳng và Freud buộc phải thừa nhận rằng trong bộ máy tâm trsi có tồn tại xung năng chết.
Ông vẫn còn một câu hỏi cần giải đáp: vậy tại sao con người lại luôn đấu tranh chống lại cái mình đang khát khao, tại sao con người lại luôn “phát minh” ra những đường vòng để né tránh cái chết, một cái chết mà con người hướng đến? Là bởi vì có những sức mạnh khác đối lập với xung năng chết này, đó chính là xung năng sống. Từ đó, cuộc sống sẽ chính là một cuộc chiến thường xuyên giữa xung năng chết và xung năng sống.”
—————–
[Đây là một tiểu luận quan trọng bởi nó đánh dấu bước ngoặt cốt yếu trong tư tưởng của Freud. Cho đến thời điểm đó, với Freud, nguyên tắc duy nhất thống trị đời sống tâm trí chính là “nguyên tắc không đổi”, hay “nguyên tắc khoái cảm” hoặc “nguyên tắc Nirvana (nguyên tắc Niết Bàn)”.Trong cuốn sách này, Freud chứng minh rằng nếu như chúng ta đẩy đến cùng cái logic, nguyên tắc này dẫn chúng ta đến một cái “sâu xa hơn” không thể bác bỏ: “xung năng chết”. Cái chết dường như không chỉ là kì hạn không thể khác của mọi sự sống, mà phiền toái hơn, còn là cái đích cuối cùng của sự sống…
Trong phần đầu của cuốn sách này, Freud sẽ khẳng định lại tầm quan trọng của nguyên tắc khoái cảm hay nguyên tắc không đổi: “Thuyết Phân tâm học chấp nhận một cách không ngần ngại rằng sự vận động của quá trình tâm trí bị chi phối bởi nguyên tắc khoái cảm”…]
FREUD & JUNG – TƯƠNG ĐỒNG & KHÁC BIỆT
Đối với nhiều người, Carl Jung và Sigmund Freud đã định nghĩa thế giới tâm lý học. Các lý thuyết của họ, mặc dù khác nhau, nhưng đã có tác động lớn nhất đến nhận thức của chúng ta về tâm trí con người, và những đóng góp của họ cho lý thuyết và thực hành đã dẫn đến sự phát triển của các phương pháp điều trị tâm lý thành công cho nhiều loại đau khổ của con người. Tuy nhiên, con đường của họ không phải lúc nào cũng khác nhau. Khi bắt đầu lịch sử đầy màu sắc này là một tình bạn, một tình bạn thân thiết dựa trên năng lực trí tuệ và mong muốn mãnh liệt để tiếp tục nghiên cứu về tâm lý vô thức. Đối với một Jung 31 tuổi, Freud không chỉ là hiện thân của một đồng nghiệp đáng kính mà còn là một hình tượng người cha mà anh ấy có thể mở rộng trái tim và tâm trí. Tương tự như vậy với Freud, Jung tràn đầy năng lượng và là một triển vọng mới thú vị cho phong trào phân tâm học. Nhưng sức mạnh này đã thay đổi, và cùng với đó là tình bạn của họ. Trong trường hợp học sinh trở thành giáo viên, vào thời điểm chia tay với Freud vào năm 1913, Jung đã được quốc tế biết đến vì những đóng góp của chính ông cho lý thuyết tâm lý học. Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự phá vỡ trí tuệ của họ, và sự khác biệt của họ nằm ở đâu? Trong cuộc chiến Freud vs Jung, liệu có kẻ chiến thắng?
🎲🎲Bất đồng 1: Tâm trí vô thức
Một trong những điểm bất đồng chính giữa Jung và Freud là quan niệm khác nhau của họ về vô thức.
– Vị trí của Freud: Freud tin rằng tâm trí vô thức là tâm điểm của những suy nghĩ bị kìm nén, những ký ức đau thương và những động lực cơ bản của tình dục và sự gây hấn. Anh ta coi nó như một kho chứa mọi ham muốn tình dục tiềm ẩn, dẫn đến chứng loạn thần kinh, hay cái mà ngày nay chúng ta gọi là bệnh tâm thần. Ông tuyên bố rằng tâm trí con người tập trung vào ba cấu trúc – id, bản ngã và siêu bản ngã. Id hình thành nên những động lực vô thức của chúng ta (chủ yếu là tình dục), và không bị ràng buộc bởi đạo đức mà thay vào đó chỉ tìm cách thỏa mãn niềm vui. Bản ngã là nhận thức, ký ức và suy nghĩ có ý thức của chúng ta cho phép chúng ta đối phó hiệu quả với thực tế. Siêu tôi cố gắng làm trung gian cho các ổ đĩa của id thông qua các hành vi được xã hội chấp nhận.
– Vị trí của Jung: Jung cũng chia tâm lý con người thành ba phần. Nhưng theo quan điểm của Jung, vô thức được chia thành bản ngã, vô thức cá nhân và vô thức tập thể. Đối với Jung, bản ngã là ý thức, vô thức cá nhân bao gồm ký ức (cả được nhớ lại và bị đè nén) và vô thức tập thể nắm giữ những trải nghiệm của chúng ta như một giống loài hoặc kiến thức mà chúng ta sinh ra đã có (ví dụ: tình yêu từ cái nhìn đầu tiên). Việc Jung đảm nhận tâm lý con người được truyền cảm hứng từ những nghiên cứu của ông về triết học và tôn giáo phương Đông như Phật giáo và Ấn Độ giáo. Ông cũng tin rằng nội dung của vô thức không chỉ giới hạn ở vật chất bị dồn nén.
🎲🎲 Bất đồng 2: Ước mơ
– Vị trí của Freud: Freud tin rằng chúng ta có thể tìm hiểu nhiều điều về một cá nhân thông qua việc giải thích những giấc mơ. Freud lập luận rằng khi chúng ta tỉnh táo, những ham muốn sâu sắc nhất của chúng ta không được thực hiện bởi vì a) có những cân nhắc về thực tế (bản ngã) và cả đạo đức (siêu bản ngã) . Nhưng trong khi ngủ, những lực kiềm chế này yếu đi và chúng ta có thể trải nghiệm những ham muốn của mình thông qua giấc mơ.
Freud cũng tin rằng những giấc mơ của chúng ta có thể tiếp cận những suy nghĩ bị kìm nén hoặc kích động lo lắng (chủ yếu là những ham muốn bị kìm nén về tình dục) mà không thể giải trí trực tiếp vì sợ lo lắng và xấu hổ. Do đó, các cơ chế phòng thủ cho phép một ham muốn hoặc suy nghĩ len lỏi vào giấc mơ của chúng ta dưới hình thức tượng trưng, ngụy trang – ví dụ, ai đó mơ thấy một cây gậy lớn theo quan điểm của Freud sẽ mơ thấy dương vật. Công việc của nhà phân tích là giải thích những giấc mơ này theo ý nghĩa thực sự của chúng.
– Vị trí của Jung: Giống như Freud, Jung tin rằng phân tích giấc mơ cho phép mở ra cánh cửa vào tâm trí vô thức. Nhưng không giống như Freud, Jung không tin rằng nội dung của tất cả các giấc mơ nhất thiết phải có bản chất tình dục hoặc chúng che giấu ý nghĩa thực sự của chúng. Thay vào đó, mô tả giấc mơ của Jung tập trung nhiều hơn vào hình ảnh tượng trưng. ông tin rằng những giấc mơ có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo sự liên tưởng của người mơ.
Jung đã phản đối ý tưởng về một ‘từ điển giấc mơ’ nơi những giấc mơ được diễn giải theo những ý nghĩa cố định. Ông tuyên bố rằng những giấc mơ nói bằng một ngôn ngữ đặc biệt của các biểu tượng, hình ảnh và phép ẩn dụ và chúng mô tả cả thế giới bên ngoài (tức là các cá nhân và địa điểm trong cuộc sống hàng ngày của một người), cũng như thế giới nội tâm của con người (cảm xúc, suy nghĩ và cảm xúc).
Jung đồng ý rằng những giấc mơ có thể mang tính chất hồi tưởng và phản ánh các sự kiện trong thời thơ ấu, nhưng ông cũng cảm thấy rằng chúng có thể dự đoán các sự kiện trong tương lai và có thể là nguồn sáng tạo tuyệt vời. Jung chỉ trích Freud vì chỉ tập trung hoàn toàn vào các khía cạnh bên ngoài và khách quan của giấc mơ của một người hơn là xem xét cả nội dung khách quan và chủ quan. Cuối cùng, một trong những khía cạnh đặc biệt hơn trong lý thuyết giấc mơ của Jung là giấc mơ có thể thể hiện nội dung cá nhân, cũng như tập thể hoặc phổ quát. Nội dung phổ quát hoặc tập thể này được hiển thị thông qua cái mà Jung gọi là ‘Archetypes’.
Nguyên mẫu là những nguyên mẫu được kế thừa phổ biến giúp chúng ta nhận thức và hành động theo một cách nhất định. Jung lập luận rằng kinh nghiệm của tổ tiên xa xôi của chúng ta về các khái niệm phổ quát như Chúa, nước và đất đã được truyền qua các thế hệ. Mọi người trong mọi thời kỳ đều bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của tổ tiên họ. Điều này có nghĩa là nội dung của vô thức tập thể là giống nhau đối với mỗi cá nhân trong một nền văn hóa. Những Nguyên mẫu này được thể hiện một cách tượng trưng thông qua những giấc mơ, tưởng tượng và ảo giác.
🎲🎲 Bất đồng 3: Giới tính & Tình dục
– Vị trí của Freud: Một trong những lĩnh vực xung đột lớn nhất, nếu không muốn nói là lớn nhất, giữa Freud và Jung là quan điểm khác nhau của họ về động cơ của con người. Đối với Freud, tình dục bị kìm nén và thể hiện là tất cả. Anh ấy cảm thấy đó là động lực thúc đẩy lớn nhất đằng sau hành vi (và như vậy là tâm lý học).
Điều này rõ ràng từ các lý thuyết giáo điều của ông về sự phát triển tâm lý tính dục, cũng như các lý thuyết khét tiếng về mặc cảm Oedipus, và ở một mức độ thấp hơn, mặc cảm Electra. Trong Bi kịch Hy Lạp, Oedipus Rex, một thanh niên vô tình giết cha mình, kết hôn với mẹ mình và có nhiều con với bà. Trong Tổ hợp Oedipus của mình, Freud gợi ý rằng trẻ em nam có ham muốn tình dục mạnh mẽ đối với mẹ của chúng và có sự oán giận dã man đối với cha của chúng (sự cạnh tranh giành mẹ). Trong khu phức hợp Electra, điều này bị đảo ngược ở chỗ chính những đứa trẻ nữ lại có ham muốn tình dục với cha của chúng và muốn loại bỏ mẹ của chúng.
Từ đó, những đứa trẻ nam sợ hãi rằng cha của chúng sẽ cắt bỏ hoặc làm tổn thương dương vật của chúng để trừng phạt vì tình cảm của chúng đối với mẹ (Sự lo lắng về sự thiến). Đối với trẻ em gái, việc nhận ra rằng chúng không có dương vật và không thể quan hệ với mẹ sẽ dẫn đến sự ghen tị với dương vật, trong đó chúng khao khát dương vật của cha mình. Điều này sau đó chuyển sang ham muốn tình dục cho người cha. Freud đưa ra giả thuyết rằng những lo lắng này sau đó sẽ bị kìm nén và sẽ bộc phát thông qua các cơ chế phòng vệ và lo lắng.
– Vị trí của Jung: Jung cảm thấy rằng sự chú ý của Freud quá tập trung vào tình dục và tác động của nó đối với hành vi. Jung quyết định rằng thứ thúc đẩy và ảnh hưởng đến hành vi là năng lượng tâm linh hoặc sinh lực, trong đó tình dục chỉ có thể là một biểu hiện tiềm tàng. Jung cũng không đồng ý với sự bốc đồng của Oedipal. Ông cho rằng mối quan hệ giữa mẹ và con dựa trên tình yêu và sự bảo vệ của người mẹ dành cho đứa trẻ. Những quan điểm này sau này được xây dựng bởi John Bowlby và Main Ainsworth trong Lý thuyết gắn bó cơ bản và Mô hình làm việc bên trong.
🎲🎲 Bất đồng 4: Tôn giáo
– Vị trí của Freud: Mặc dù là người Do Thái theo di sản, Freud cảm thấy rằng tôn giáo là lối thoát cho hầu hết mọi người. Giống như Karl Marx, ông cảm thấy rằng tôn giáo là ‘thuốc phiện’ của quần chúng và không nên truyền bá tôn giáo này. Điều đó nói rằng, Freud đã vật lộn với vấn đề thần thoại và các tổ chức tôn giáo trong phần lớn cuộc đời của mình. Anh ấy đã sưu tập nhiều đồ cổ, hầu hết là đồ tôn giáo, và một bức tranh hoạt hình của Leonardo, ‘Madonna and Child with St Anne’ được treo trong nhà anh ấy. Một số học giả cho rằng Freud coi tôn giáo là sự thật tâm lý được ngụy trang mà ông cảm thấy nằm ở trung tâm của sự đau khổ về tinh thần của con người.
– Vị trí của Jung: Tôn giáo theo quan điểm của Jung là một phần cần thiết của quá trình cá nhân hóa và đưa ra một phương thức giao tiếp giữa con người. Điều này dựa trên ý tưởng rằng các nguyên mẫu và biểu tượng có trong nhiều tôn giáo khác nhau đều có nghĩa giống nhau. Mặc dù không thực hành một tôn giáo cụ thể nào, nhưng Jung rất tò mò và khám phá các tôn giáo từ quan điểm nguyên mẫu, đặc biệt là các triết học và tôn giáo phương Đông. Trong các cuộc tranh luận và trao đổi thư từ giữa Freud và Jung, Freud đã buộc tội Jung bài Do Thái.
🎲🎲 Bất đồng 5: Para-Psychology
– Vị trí của Freud: Ông là một người hoàn toàn hoài nghi về tất cả những điều huyền bí.
– Vị trí của Jung: Jung rất quan tâm đến lĩnh vực cận tâm lý học và đặc biệt là hiện tượng tâm linh như thần giao cách cảm và tính đồng bộ (sẽ trở thành một phần trong lý thuyết của ông). Khi còn trẻ, Jung thường tham gia các buổi lên đồng và luận án tiến sĩ của anh ấy nghiên cứu về ‘Tâm lý học và bệnh lý của cái gọi là hiện tượng huyền bí’, trong đó lấy người anh họ của anh ấy làm phương tiện.
Năm 1909, Jung đến thăm Freud ở Vienna để thảo luận về quan điểm của Freud về điều huyền bí. Khi họ nói chuyện, rõ ràng là Freud có rất ít thời gian cho những ý tưởng như vậy và tiếp tục ngăn cản Jung theo đuổi chúng. Khi họ tiếp tục nói chuyện, Jung cảm thấy một cảm giác kỳ lạ trong bụng. Ngay khi Jung nhận thức được những cảm giác này, một tiếng động lớn phát ra từ tủ sách cạnh họ. Jung tuyên bố rằng nó phải có nguồn gốc huyền bí, nhưng Freud tức giận không đồng ý. Khi họ tiếp tục tranh luận, Jung tuyên bố rằng tiếng ồn sẽ lại xảy ra – và nó đã xảy ra. Cả hai người đàn ông nhìn nhau kinh ngạc nhưng không bao giờ nói về vụ việc nữa.
Mối quan tâm suốt đời này đối với những điều huyền bí và tác động của nó đối với tâm lý con người đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của thuyết đồng bộ có ảnh hưởng nhưng gây tranh cãi của Jung. Thuật ngữ này do Jung đặt ra để mô tả “mối liên hệ nhân quả của hai hoặc nhiều hiện tượng tâm lý”. Lý thuyết này được lấy cảm hứng từ trường hợp của một bệnh nhân khi bệnh nhân mơ thấy một con bọ hung vàng. Ngày hôm sau, trong buổi trị liệu tâm lý, một con bọ hung vàng thực sự đập vào cửa sổ – một sự kiện rất hiếm gặp! Sự gần gũi của hai sự kiện này khiến Jung tin rằng đó không phải là ngẫu nhiên mà là một liên kết quan trọng giữa thế giới bên ngoài và bên trong của cá nhân.
🎲🎲 Tóm lại, là Khi xem xét Freud và Jung, điều quan trọng là phải đặt sự khác biệt giữa họ trong bối cảnh tính cách của họ cũng như trong khoảng thời gian văn hóa mà họ sống và làm việc. Và cũng có cơ sở để nhận ra rằng cũng có những điểm tương đồng đáng kể. Cả hai người đàn ông khi bắt đầu tình bạn của họ đã vô cùng phấn khích trước sự đồng hành trí tuệ của nhau và ban đầu đã dành mười ba giờ trò chuyện sâu sắc để chia sẻ suy nghĩ của họ về vô thức và các phương pháp điều trị bệnh tâm thần. Cả hai đều nảy sinh ý tưởng về vô thức và tầm quan trọng của giấc mơ trong việc hiểu các vấn đề.
Và đối với câu hỏi ai là người chiến thắng trong trận chiến Freud vs Jung, câu trả lời là tâm lý trị liệu thời hiện đại đã chiến thắng, với những lý thuyết của họ quan trọng đến mức chúng vẫn đứng sau nhiều phương pháp trị liệu tâm lý được sử dụng ngày nay.
Tiến sĩ Sheri Jacobson, ngày 4 tháng 3 năm 2023.
🎲🎲 BỘ 5 QUYỂN SÁCH CỦA S.FEUD
1. Dẫn Luận Về Freud: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/dan-luan-ve-freud/
2. Giấc Mơ Và Diễn Giải Giấc Mơ: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/giac-mo-va-dien-giai-giac-mo/
3. Nghiên Cứu Phân Tâm Học: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/nghien-cuu-phan-tam-hoc/
4. Nhà Tư Tưởng Lớn – Freud Trong 60 Phút: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/nha-tu-tuong-lon-freud-trong-60-phut/
5. Sâu Xa Hơn Nguyên Tắc Không Đổi: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/sau-xa-hon-nguyen-tac-khong-doi/
🎲🎲 BỘ 5 QUYỂN SÁCH CỦA C.JUNG
1. Dẫn Luận Về Jung: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/dan-luan-ve-jung/
2. Bản đồ tâm hồn con người của Jung: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/ban-do-tam-hon-con-nguoi-cua-jung/
3. Con Người Và Biểu Tượng – Sự Thông Đạt Từ Những Biểu Tượng Trong Giấc Mơ: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/con-nguoi-va-bieu-tuong/
4. Những Liên Hệ Giữa Cái Tôi Và Cái Vô Thức: https://vientamlyhocnhanvan.com/product/nhung-lien-he-giua-cai-toi-va-cai-vo-thuc-c-jung/
5. Thăm Dò Tiềm Thức:https://vientamlyhocnhanvan.com/product/tham-do-tiem-thuc/
—————————-
PHÒNG SÁCH TÂM LÝ HỌC
www.psychology.edu.vn
Hotline/Zalo 0365 797 485
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.